Anh Đang, quê ở xã Thạch Bằng (nay xã Lộc Hà) tỉnh Hà Tĩnh – một thanh niên vùng biển khỏe mạnh, cần cù, chịu khó, được giao nhiệm vụ gì cũng hoàn thành xuất sắc. Đặc biệt, anh bắn súng tư thế nào cũng giỏi.
Đơn vị nhận được lệnh lên đường đi chiến đấu, trong một cánh quân tham gia chiến dịch mùa Xuân 1975, mọi người vội lên đường với quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đơn vị được giao nhiệm vụ cùng các đơn vị giải phóng tỉnh Thừa Thiên – Huế. Lệnh tấn công thành phố Huế bắt đầu, mũi của Đại đội đánh chiếm cao điểm khe Thai mở đường xuống thành phố Huế. Địch chống trả quyết liệt. Chúng cho pháo binh bắn cấp tập vào đội hình, cho xe tăng yểm trợ. Đây là điểm huyết mạch mở đường xuống thành phố Huế, trên giao nhiệm vụ Đại đội phải chiếm được cao điểm, chốt giữ để cho mũi chủ yếu tiến vào thành phố. Đồng chí Đang dùng súng B41 tiêu diệt lô cốt thứ nhất, rồi lô cốt thứ 2, cánh cửa đánh vào trung tâm cao điểm mở toang.
Trong lúc đơn vị xung phong chiếm cao điểm, đồng chí Đang bị một viên đạn xuyên qua ngực. Nhìn Đang ôm khẩu súng B41 từ từ ngã xuống, trong lúc đồng đội đang chiếm cao điểm. Đồng đội thương xót đồng chí vô cùng. Đại đội trưởng hô vang: “Quyết tiêu diệt quân địch, trả thù cho Đang”… Mọi người hừng hực khí thế chiến đấu. Đại đội trưởng đưa tay vuốt mặt cho Đang nghẹn lòng nói trong nước mắt: “Em ơi! Anh thương em vô cùng. Em ra đi trong lúc chiến dịch mới bắt đầu, đồng đội sẽ bắt kẻ thù đền tội. Anh em mình chia tay nhau em nhé”. Nói đến đấy đôi mắt Đang từ từ nhắm lại ra đi. Đang được chuyển về tuyến sau mai táng, đơn vị tiếp tục làm nhiệm vụ.
Tòng, ở phố Hàng Đào, Hà Nội. Tôi và Tòng tuy khác đơn vị nhưng chơi với nhau rất thân. Tòng một chàng trai Hà Nội thư sinh, rất thông minh, dí dỏm. Tòng có người yêu là Thịnh. Mỗi khi gặp nhau, Tòng hay đưa ảnh Thịnh ra khoe với tôi. Thịnh – một nữ sinh đất Hà Thành thùy mị, có khuôn mặt trái xoan rất xinh, viết thư cho người yêu rất tình cảm. Thịnh chờ Tòng về phép là tổ chức lễ cưới. Lễ thành hôn 2 bạn chưa có dịp để tổ chức thì Chiến dịch mùa Xuân 1975 bắt đầu. Tòng cùng đồng đội ra trận giải phóng Thừa Thiên – Huế, Đà Nẵng, Phan Rang, Phan Thiết, Xuân Lộc, rồi tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh.
Khi Chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu vào trận mạc, cán bộ, chiến sĩ ai cũng vô cùng phấn khởi bởi đây là trận chiến cuối cùng, non sông thu về một mối, thực hiện ước mong cháy bỏng của Bác Hồ kính yếu.
Là Đại đội trưởng trinh sát nên Tòng luôn đi đầu. Khoảng hơn 9 giờ sáng ngày 30/4/1975, đơn vị của Tòng tiến đến sát sông Sài Gòn. Vào lúc hơn 10 giờ, Tòng trực tiếp đưa các đồng chí chỉ huy qua sông Cát Lái. Lúc đó, trên sông có 2 chiếc tàu chiến của địch đã kéo cờ trắng đầu hàng. Tòng cùng mọi người trong Đại đội trinh sát cho rằng chúng kéo cờ trắng thì không chống lại nữa.
Không ngờ khi quân ta đang vượt sông quân lính trên tàu chúng nổ súng, Tòng bị trúng đạn hy sinh. Ngay lập tức các đồng chí chỉ huy cho mọi người tiêu diệt hai chiếc tàu chiến của địch. Nhận được tin Tòng hy sinh, tôi đau đớn, thương bạn vô cùng, một người lính trinh sát tham gia nhiều trận đánh ác liệt, không việc gì, nay giờ toàn thắng đã đến, đây là trận đánh cuối cùng, bạn lại đột ngột ra đi. Đến nay gần 50 năm tôi không sao quyên được Tòng – một người lính trinh sát thông minh, tài ba, lập nhiều chiến công đã anh dũng hy sinh tuổi đời còn quá trẻ.
Đặng Đình Hải – con trai Đại tá Đặng Đình Hồ, quê xã Phong Thịnh, huyện Thanh Chương (cũ) nay là xã Cát Ngạn, tỉnh Nghệ An. Ông Đặng Đình Hồ là một người lính đánh giặc nổi tiếng trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Là một trong những người được phong Anh hùng Lực lượng vũ trang đầu tiên của quân đội ta. Chiến dịch biên giới Tây Nam nổ ra, Đặng Đình Hải từ Đại đội trưởng trinh sát Sư đoàn 304, anh xin xuống đơn vị chiến đấu.

Liệt sĩ Đặng Đình Hải chiến đấu anh dũng, hy sinh trong Chiến dịch biên giới Tây Nam.
Trong chiến dịch biên giới Tây Nam, khi quân ta mở đường qua kênh Vĩnh Tế đánh quân PonPot cứu đất nước Campuchia khỏi họa diệt chủng, đơn vị đánh mở đường bị địch chống cự quyết liệt không hoàn thành nhiệm vụ. Trên điều đơn vị Hải lên chi viện. Hải chỉ huy anh em mở các mũi đánh vào hai sườn địch. Địch bị động đối phó không chống cự nổi, chúng thất bại. Cửa mở quân ta vượt qua kênh Vĩnh Tế tiến vào giải phóng Campuchia. Trong lúc chỉ huy đơn vị tiến lên thì Hải bị một viên đạn 12,8 ly xuyên mất mỏm tim.
Biết tin Hải bị thương nặng tôi vội đến, bác sĩ quân y với giọng rất buồn nói: “Anh Hải bị thương nặng quá không thể cứu được nữa đồng chí ơi”. Tôi nhìn Hải nằm bất động nước mắt từ từ chảy. Trước khi Hải hy sinh giọng anh mấp máy nhờ tôi nói với bố Đại tá Đặng Đình Hồ: “Con đã làm tròn những gì bố dặn, con xứng đáng đứa con ngoan của bố. Nhờ bạn nói với Thu vợ tớ đi lấy chồng, tìm một người tốt mà nương tựa. Nói với con gái, bố ra đi vì đất nước, con nhớ nghe lời ông, bà và mẹ, chăm ngoan học giỏi”. Nói đến đó Hải ra đi. Tôi đã khóc! Đồng đội của Hải cũng khóc!!!
Những lời dặn của Hải sau hơn 10 năm khi ông Đặng Đình Hồ lên Phó Tư lệnh Quân đoàn 2, một lần tôi về công tác ở Quân đoàn đã nói lại với ông tất cả. Ông và tôi trong căn phòng khách, ông khóc rồi nói: “Trước khi Chiến dịch biên giới Tây Nam xảy ra, các đồng chí ở Ban cán bộ Sư đoàn nói với tôi Chiến dịch này ác liệt lắm, xin thủ trưởng đưa cháu Hải lên Ban tác chiến sư đoàn. Tôi biết lên đó Hải an toàn hơn, ở đơn vị chiến đấu. Nhưng tôi không đồng ý. Tôi bảo với các đồng chí, con cán bộ đưa về nơi an toàn, còn con dân đưa ra phía trước chiến đấu làm như thế không được. Mình cán bộ, đảng viên phải gương mẫu, các anh đưa cháu xuống đơn vị chiến đấu để cháu trưởng thành. Khi Hải hy sinh, bà nhà tôi và Thu vợ Hải có phàn nàn tôi, nếu ông nghe các chú ở Ban cán bộ thì Hải không hy sinh. Nhưng cháu ơi, mình mất con đau bao nhiêu, người dân họ mất con cũng đau như thế”.
Nghe ông nói tôi càng thương ông một người cha trải qua các cuộc kháng chiến, đánh hàng trăm trận với kẻ thù, trên mình mang đầy thương tích, dự kín nỗi đau khi con hy sinh đến nay mới giãi bày.
May mắn chiến tranh kết thúc, tôi còn sống trở về. Bản thân tôi, đồng đội của tôi, gia đình của những anh em đã ra đi vì đất nước còn khó khăn lắm. Hàng năm đến ngày 27 tháng 7 và Tết Nguyên Đán, tôi lại năn nỉ nhờ các mạnh thường quân, nhờ các doanh nghiệp ủng hộ để đến động viên đồng đội bị thương, trao chút quà nhỏ cho con em đồng đội bị chất độc da cam. Tôi cũng bắt gặp nhiều hình ảnh vô cùng đau lòng. Chúng tôi cùng Hội Chất độc da cam thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An đến trao quà cho một gia đình ở phường Lê Mao. Hình ảnh làm mọi người trong đoàn người nào mắt cũng đỏ hoe đó là hai cha con bị chất độc da cam dạng thần kinh, xích 2 phòng. Quần áo, chăn màn, khi cơn lên là xé hết. Một cái phong bì mấy triệu đồng trong ngày Tết thật nhỏ nhoi, không có gì bù đắp được sự mất mát của đồng đội, của gia đình.
Cháu Trần Đức Duy, ở thôn Linh Tân, xã Xuân Liên, huyện Nghi Xuân (nay là xã Cổ Đạm), tỉnh Hà Tĩnh mới 5 tuổi nạn nhân chất độc da cam thế hệ thứ 3, không được hưởng một chế độ gì. Cháu bị úng thủy não, không đi lại được. Bố bị chất độc gia cam thế hệ thứ 2, gia đình cháu vô cùng khó khăn, chân tay bị khoèo, di chuyển phải bò. Mẹ bị tâm thần. Gia đình 5 người chỉ nhờ vào chế độ chất độc da cam 1.600.000 đồng/tháng. Đến thăm gia đình cháu, chúng tôi cứ bần thần, cuộc chiến tranh này tàn khốc quá. Chiến tranh đã đi qua 50 năm nhưng hậu quả còn vô cùng nặng nề.
Em Đặng Thị Như Quỳnh, ở thôn Phú Mỹ, xã Xuân Mỹ, huyện Nghi Xuân (nay xã Tiên Điền), tỉnh Hà Tĩnh, nạn nhân chất độc da cam thế hệ thứ 3, không được hưởng một chế độ gì. Cha nạn nhân chất độc da cam. Mẹ thấy gia đình khó khăn bỏ cha con đi. Ba cha con sống nhờ chế độ chất độc da cam 1.600.000 đồng/tháng.

Tặng quà cho nạn nhân chất độc da cam ở xã Đức Tùng, huyện Đức Thọ (nay xã Đức Minh) tỉnh Hà Tĩnh.
Không thể nào quên người mẹ ở xã Đức Tùng, huyện Đức Thọ (nay xã Đức Minh, tỉnh Hà Tĩnh), mái tóc bạc phơ, già yếu, đôi tay run run bón cháo cho cô con gái cũng là nạn nhân chất độc da cam nằm một chỗ đã gần 40 năm. Mỗi thìa cháo đút cho con bà phải giỗ, giành như đứa trẻ mới lên một, lên hai con mới ăn. Mọi sinh hoạt cá nhân của con gần 40 năm nay đều do bà làm cả. Khi chúng tôi đến, bà không hề tỏ ra một lời kêu ca phàn nàn, trách móc. Mong muốn duy nhất của bà trời cho sống được lâu để phục vụ con. Lo nhất, sợ nhất của bà nếu mình mất đi con không ai chăm, ai lo. Nhìn vào tấm gương của bà, chúng tôi trong đoàn nói với nhau ít có đất nước nào có đức tính hy sinh cao cả như người mẹ Việt Nam âm thầm chịu đựng, chịu thương, chịu khó, lo cho chồng, cho con.
Một người mẹ ở phường Bến Thủy, T.P Vinh (nay là phường Trường Vinh), tỉnh Nghệ An có cậu con trai rất thông minh đang học Đại học Bách Khoa ở Hà Nội năm thứ 3. Do ảnh hưởng chất độc da cam từ bố, anh đau đầu chóng mặt, không thể theo học được nữa. Bỏ học về nhà một thời gian anh nằm 1 chỗ không đi lại được, đầu to dần ra, mọi hoạt động phải nhờ người trong gia đình giúp. Hôm chúng tôi đến được biết anh không còn sống được bao nhiêu nữa. Chất độc da cam sắp lấy đi một người tài giỏi, có ích cho đất nước.
Hiện nay, rất nhiều nạn nhân chất độc da cam thế hệ thứ 3 chưa được hưởng chế độ chất độc da cam. Hy vọng Nhà nước sớm có chế độ cho những người này. Hy vọng các mạnh thường quân, các nhà hảo tâm, các doanh nghiệp quan tâm giúp đỡ để những gia đình nạn nhân chất độc gia cam, gia đình thương binh, gia đình liệt sĩ để họ giảm đi khó khăn, vất vả.
Nguồn: https://lsvn.vn/thuong-nho-dong-doi-da-hy-sinh-khong-quen-nhung-nan-nhan-chat-doc-da-cam-con-kho-khan-a160522.html